Ngày 17-4-1838,
quan quân đang lùng bắt những đạo trưởng Công Giáo thì tại An
Liêm, lương dân bắt được một người lạ mặt, một thầy giảng với
sáu bức thơ và bình đựng dầu thánh. Thầy giảng này do Cha Viên
sai đi để gửi các thư và lấy dầu thánh.
Tại làng An Liêm,
một làng nửa Công Giáo nửa bên lương, đã từ lâu có sự hiềm khích
vì người Công Giáo đã được phép chước không phải góp tiền vào
các dịp cúng lễ trong năm. Nhân dịp này bên lương yêu cầu bên
giáo hủy bỏ điều này, từ nay góp tiền vào việc cúng thần thì sẽ
bỏ qua nội vụ. Song lệnh của đức cha và của tòa thánh là không
thể thông công vào các việc dị đoan. Thế là dân làng An Liêm đem
nộp cho quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Ông này mừng rỡ liền
sai 800 lính đến Cao Xá theo lời khai của thầy giảng để lùng bắt
Cha Viên. Từ đây mở màn cho những cuộc lùng bắt ghê gớm tại các
tỉnh Nam Ðịnh, Hưng Yên....
Cha Giuse Viên,
tác giả sáu bức thư, sinh năm 1787 tại làng Tiên Chu, huyện Tiên
Lữ, tỉnh Hưng Yên. Cha mẹ là những tín hữu sốt sắng đã gửi cậu
Viên vào nhà Ðức Chúa Trời ở họ Vân, xứ An Thị Sau đó cậu được
gửi theo học Latinh và Thần Học tại Lục Thủy, và năm 1824 ngài
được thụ phong linh mục. Lúc đó Cha Viên mới 36 tuổi.
Hai năm sau, Cha
Viên được đổi về miền Bắc Ninh, và trong suốt 16 năm trời cha
hoạt động rất đắc lực cho Chúa và các linh hồn tại các họ Ðông
Bài, Thiết Nham, Như Thiết, An Mỹ.
Vì những lá thơ
đó, Cha Viên bị các quan quân truy nã rất gắt gao. Họ được lệnh
đi tìm bắt Cha Viên bằng mọi giá. Quan đầu tỉnh Hưng Yên là Hà
Thúc Lương gửi người về tỉnh và huyện để tra khảo tên tuổi lý
lịch Cha Viên nhưng không ai biết Cha Viên ở đâu. Sau cùng họ bá
cáo về kinh, vua phẫn nộ và trách quở quan tuần. Vua còn ra chỉ
thị cho quan phải bắt Cha Viên trong một thời kỳ đã ấn định sẵn.
Trong thời gian khá lâu, quan cũng không tìm ra tông tích nên
quan lại phải xin vua gia hạn. Biết rằng tìm kim đáy biển, quan
liền bày ra một diệu kế và mạo nhận viết một lá thơ cho Cha Viên
lấy tên là người nhà của Cha Viên. Trong lá thơ tỏ ra rất lo
lắng cho số mạng của Cha Viên và chỉ muốn giúp đỡ Cha Viên mà
thôi. Qua diệu kế và lời hứa thưởng bội hậu, quan đã tìm thấy
hai tên phản bội. Hai tên này là Ðặng Ðình Lại và Ðặng Ðình
Nhật, anh ruột và cháu ruột của Cha Ðặng Ðình Viên.
Theo sự kiện trên,
chúng ta thấy lời Chúa hoàn toàn ứng nghiệm: "Các con sẽ bị nộp
trước tòa bởi chính cha mẹ, anh em bạn hữu mình". (Lk 21, 16).
Hai tên phản bội này mất cả tháng trời để dò la tin tức về Cha
Viên, sau cùng họ tìm ra nhà bà Hai Nhi, nhà mà họ nghi là Cha
Viên đang ẩn núp, ở họ Cầu Chảy, xã Như Thiết. Họ đưa cho người
đàn bà ra mở cửa một lá thơ đề tên Cha Viên. Chị này cầm đến cho
cha, khi cha mở ra thì biết rằng mình bị mắc mưu. Cha cố gắng
dán thơ lại nhưng không thể nào giống như cũ được cha đành phải
vội vàng trả lại. Khi hai tên này nhận được thơ thì biết ngay là
chỗ ở của Cha Viên, mặc dầu người trong nhà tìm đủ cách để đánh
lạc hướng. Hai tên phản bội cũng ngầm đi báo lính canh gần đấy.
Sau này chính hai tên này xưng hô rằng chúng muốn đích thân để
bắt Cha Viên nhưng sợ không đủ thời giờ đành phải nhờ lính.
Chúng muốn tri hô lên vậy để kiếm thêm tiền thưởng. Vừa nói xong
quan tuần đến ngay. Chỉ kịp giờ cho Cha Viên chạy ra vườn mía
sau nhà. Từ vườn mía cha không thể lẩn trốn ngay mà không bị lộ
tông tích, tuy nhiên nếu lanh chân cha vẫn có thể trốn thoát nếu
không vì lòng thương xót kẻ khác thúc đẩy để cha ra nộp mình.
Hiểu biết như vậy,
quan tuần lôi một đứa trẻ thuộc gia đình đó ra tra tấn. Mặc dầu
bị tra tấn rất dã man, em bé vẫn can đảm chịu đựng và sau cùng
không chịu được nữa em phải kêu lên: "Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin đến
cứu con, con không biết chỗ ẩn núp của linh mục đó".
Em đau đớn rên rỉ
làm Cha Viên phải xuất đầu lộ diện và nói: "Tôi đây là linh mục
Viên, hãy bắt tôi và tha cho em đó".
Hôm ấy là 1-8, Cha
Viên bị bắt. Thấy vậy quan quân cũng phải đem lòng khâm phục vì
gương anh dũng và lòng thương người của Cha Viên. Trước khi quân
lính lăn xả vào trói Cha Viên, chúng nói với nhau: "Nếu người
này có cái răng gẫy, chính là đạo trưởng Viên".
Khi khám phá ra
dấu đó, lính lăn xả vào trói và đập đánh Cha Viên. Khi đánh xong
chúng đeo gông và xiềng xích vào cho ngài rồi lôi ra đình làng,
sau đó từ đình làng tới Hưng An và nhốt cha trong tù chung với
những kẻ trộm cướp, sát nhân.
Mặc dầu bị đau đớn
hành khổ cùng đeo xiềng xích Cha Viên vẫn một lòng trung tín
cùng Chúa và đạo thánh người. Họ tra khảo lý lịch và bắt cha
dịch ngay lá thơ viết bằng ngoại ngữ ra tiếng Việt, cha vâng lời
ngay tức khắc.
Ðức Cha Marti đã
viết trong cuốn hồi ký của ngài rằng khi Cha Viên dịch ra tiếng
Việt thấy lá thơ không có mưu đồ hại gì càng làm cho quan rất
phẫn nộ vì chính ông đinh ninh rằng thơ này có ẩn ý gì hoặc hãm
hại ông hay vua.
Một điều chắc là
họ muốn tìm bắt cho được Cha Hermosilla, vị truyền giáo còn lại
mà những lá thơ này đã ám chỉ đến ngài.
Lẽ dĩ nhiên Cha
Viên là tác giả những lá thơ đó, nên bị hành khổ tra tấn rất dã
man và với ơn Chúa giúp, cha vẫn khăng khăng một mực từ chối
không tiết lộ điều gì có nguy hại cho các linh mục cả.
Qua những sự kiện
này họ vẫn không thể lay chuyển được Cha Viên nên ngày 3-8 các
quan làm án như sau: "Hết lòng trung thành với vua, chúng tôi đã
bắt được tên Ðặng Ðình Viên, người bản quốc và là công dân triều
đình vì tội hắn là đạo trưởng Kitô, hắn thuộc loại ngu ngốc, đã
dám theo người tây phương và chẳng những đã theo đạo tà này lại
còn dạy kẻ khác theo nữa và dùng mưu mô để lường gạt dân chúng.
Khi có lệnh vua cấm, hắn vẫn ngang nhiên phản lại. Hắn còn dám
thông đồng và viết thơ cho người Tây phương bằng ngôn ngữ của
họ. Hiển nhiên, hắn đã làm quấy và khờ dại không biết phải trái.
Về phần chúng tôi, chúng tôi vẫn một lòng dạ với vua và do đó
hắn phải xử trảm như Ðỗ Yên. Vậy xin vua phê cho Ðặng Văn Viên
cũng như vậy".
Ngày 12-8, vua phê
như sau: "Ðạo trưởng tên Lương cũng gọi là Ðặng Ðình Viên, thần
dân của nước trẫm và là đạo trưởng của đạo Kitô đã theo tà đạo.
Ðã vậy hắn vẫn không sợ hoặc ăn năn hay xuất đạo, ngược lại hắn
đã viết thơ bằng tiếng ngoại ngữ cho bốn người tây phương, nếu
vậy hắn là thứ đạo trưởng của tả đạo. Ta đồng ý và tuyên án, hắn
phải trảm quyết".
Từ khi bị kết án
rồi, theo lời một nhân chứng, quan quân còn dùng đủ cách để tra
khảo và bắt ép Cha Viên phải chà đạp thánh giá và xuất đạo,
nhưng đầy tớ Chúa vẫn khăng khăng một mực trung tín. Có lúc
chúng dùng lời nịnh bợ và cố để lọt vào tai cha. Chúng nói với
nhau: "Nếu ông này chọn sống với chúng ta, ông ấy có thể làm lớn
như chúng ta vì ông có bộ mặt rất sắc sảo thông minh hơn người".
Cha Viên nghe vậy,
ngài chỉ làm thinh.
Lệnh vua về tới
Nam Ðịnh ngày 21-8, quan quân lập tức thi hành ngay. Một trong
hai tên phản bội đấm ngực và xin được tha thứ. Cha Viên sẵn sàng
ngay nhưng cha cho hắn ta biết tội rất nặng và đòi anh ta phải
đi xưng tội và làm việc đền tội. Hành động xin tạ tội này không
thật lòng vì sau này anh ta vẫn tiếp tục làm hại các linh mục.
Cha Viên bị đeo
gông, và xiềng xích rất nặng như một tên tội nhân cùng khổ nhất.
Trước khi hành xử chúng còn cố gắng dụ dỗ cha xuất giáo một lần
nữa nhưng cha cương quyết cự tuyệt sau đó chúng mới đọc bản án.
Quan quân tụ họp
ngay tại đình làng. Dẫn đầu bằng một tên lính mang bản án. Sau
hắn ta là đoàn lý hình với gươm giáo rồi đến quan quân chễm chệ
trên lưng voi dẫn ra pháp trường. Theo sau có rất đông dân chúng
cả lương lẫn giáo. Vừa đi Cha Viên vừa chăm chỉ cầu nguyyện, có
lúc cha khóc lóc và ăn năn vì tội mình. Một người ngoại đạo,
ngạc nhiên nói với người Công Giáo vì anh ta cho rằng Cha Viên
có lẽ sợ nên đã khóc. Người Công Giáo bảo anh ta rằng: "Ông lầm
rồi, cha chúng tôi không khóc vì sợ chết, mà khóc vì vui mừng đó
thôi".
Khoảng trưa thì cả
đoàn người đã tới pháp trường gọi là Ba Tòa. Họ tháo gông và
xiềng xích cho cha. Một vài giáo dân đã đem theo sau mảnh chiếu
và trải cho cha ngồị
Họ cũng mang đồ ăn
cho cha. Nhưng cha chỉ nếm thôi để làm hài lòng họ. Sau mấy phút
trầm ngâm cầu nguyện, cha đưa hai cánh tay cho họ trói giật lại.
Cha Viên, như con chiên trên bàn hiến tế, ngoan ngoãn giương cổ
cho lý hình đang chờ sẵn. Lúc đó hai tên phản bội lăn xả xuống
và xin Cha Viên tha tội. Cha nói, cha sẵn sàng tha cho họ với
điều kiện họ phải đi xưng tội và làm việc đền tội. Trong hồi ký,
Ðức Cha Marti kể rằng: "Có một người ngoại đạo tên Hòa đến gần
Cha Viên và nói thầm với cha rằng: 'Hôm nay cha về trời, nếu cha
cần phải nhắn bảo hay làm gì, con sẵn sàng làm theo ý cha".
Thinh lặng trong
phút cầu nguyện, cha hướng mặt về trời lần sau chót và lý hình
vung gươm chém một nhát. Ðầu cha lăn ngay xuống đất và linh hồn
hạnh phúc ấy được hợp hoan cùng Chúa muôn đời. Cha thọ 52 tuổi.
Theo tập quán của
thời này, dân chúng lương cũng như giáo chạy ra và thấm máu cha
cũng như họ đã tranh nhau lấy tất cả những gì thuộc về cha và có
người bán chác ngay tại chỗ, thậm chí có người dám cắt tai cha
để bán lại cho giáo dân.
Sau đó, bổn đạo
tại làng Vân xin giữ đầu Cha Viên, nhưng giáo dân làng Tiên Chu
ngăn cản họ. Trong khi đó quan tuần đã cho phép dân chúng làng
Tiên Chu giữ cả xác và đầu Cha Viên và họ đã chôn cất tại nhà
thờ mà vua đã cho phá. Làng Tiên Chu có khoảng ba ngàn giáo dân.
Sau vụ này, vua
ban thưởng ba trăm quan. Số tiền này họ chia nhau và cho cả hai
tên phản bội nữa. Sau đó quan tuần được thăng chức. Ðó là tất cả
các lợi lộc, chức tước của đời này, còn chúng ta những người
Công Giáo thì sao? Chúng ta phải đợi phán xét xử công minh của
Chúa. Ðó mới là chính phần thưởng vĩnh cửu đời sau.
Đức Lêo XIII suy
tôn cha Giuse Đặng Đình Viên lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển
thánh.
Nguồn ST
Trường thi tử Đạo.
Giuse Ðặng Ðình
Viên linh mục
Sinh Ðinh Mùi (1787) quê thực Hưng Yên (Tiên Chu)
Mẹ cha từ nhỏ quy tiên
Thừa sai theo giúp, khắp miền đó đây
Rồi được nhận vào thầy chủng viện
Khoảng mười năm hiện diện nhà tràng
Triết thần thầy học giỏi giang
Thụ phong Linh mục, lên hàng chăn chiên
Làm Cha phó xứ, miền Lục Thủy
Sau hai năm hoan hỷ Ðồng Nai
Nhiều nơi thay đổi triển khai
Thiết Nham, Như Thiết lâu dài Mỹ An
Suốt mười bảy năm, tràn ơn thánh
Mục tử siêng nặng gánh chu toàn
Sáu bức thư gởi Bắc Nam
Tuần Phủ bắt được, lệnh ban truy tìm
Hai ông biết có tin tỉnh Bắc
Cho quân lên vây bắt Cha Viên
Cầu Chay, Như Thiết hai miền
Nhưng Cha thoát được, sang liền vườn kia
Vườn rậm rạp, lính lia đâu thấy
Chúng dùng mưu bắt lấy trẻ con
Bé la vì bị ăn đòn
Kêu tên cực trọng, cứu con Chúa Trời
Cha đau đớn nghe nơi cháu khóc
Ngài bước ra tự động nộp mình
Tôi đây đạo trưởng thật tình
Các anh tìm bắt, Triều Ðình lệnh ban
Chúng trói lại, lên đàng dẫn giải
Cổ bị gông về mãi Hưng Yên
Các quan bắt buộc Cha Viên
Phải là phiên dịch, ra liền tiếng ta
Cha đã chuyển hết ra tiếng Việt
Không âm mưu rất thiệt thẳng ngay
Các quan lại dụ đổi thay
Chỉ cần chối đạo, tha ngay cho về
Cha trả lời không hề phản bội
Tôi Linh mục Giáo hội rao truyền
Tân tòng giáo hữu nhủ khuyên
Chứng nhân của Chúa, khắp miền tuyên xưng
Quan cứ xử, xin đừng dụ dỗ
Tôi vững tin bền đỗ tới cùng
Hai người trong họ đi chung
Xin Cha tha lỗi, tội khùng tố Cha
Cha Viên nói, thứ tha tất cả
Dùng chút cơm, thư thả nguyện cầu
Lý hình đao phủ từ đâu
Vung gươm tới chém, rụng đầu chứng nhân
Các tín hữu người thân thấm máu
Cả gia đình con cháu giáo dân
Thi hài Cha, cổ lìa thân
Ba trăm bổn đạo, dự phần rước đưa
Về Tiên Chu xế trưa an táng
Cha Ðình Viên xứng đáng chứng nhân
Chu toàn mục vụ trọn phần
Anh hùng tử đạo, hồng ân nước trời
Phúc tử đạo tuyệt vời Mậu Tuất (1838)
Bỏ trần gian không mất Nước Trời
Canh Tý (1900) Toà Thánh Roma
Suy tôn Chân Phước hoan ca chúc mừng
Thẻ Bài của Cha ghi như sau
Ðạo Trưởng Ðặng Ðình Viên
Từng giảng tà đạo
Liên lạc với Ðạo Trưởng Tây man
Tụ tập Ðạo Ðồ, Ðạo Chúng, Ðạo Thủ
Bất khẳng quá khóa
Vi phạm Quốc Pháp
Luật hình trảm quyết
Lời bất hu: Khi quân lính lùng bắt cha, cha thấy lính
hành hạ người nhà quá, cha từ chỗ ẩn nấp ra và nói: "Tôi là đạo
trưởng Viên các anh đang tìm bắt đây, xin đừng làm khổ đứa trẻ
này nữa". Ðến trước quan, quan khuyên cha chối đạo để được tha,
cha Viên cương quyết trả lời: "Dù có chết tôi cũng không quá
khoá. Tôi là đạo trưởng mà quá khoá thì ai theo đạo nữa". |